Toggle navigation
FDI và nền kinh tế vãng lai
18/07/2018 | 08:45 GMT+7
Chia sẻ :
Việt Nam đã mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) được 30 năm. Thành tựu và hiệu quả của FDI thật lớn lao, bao gồm sự thay đổi bộ mặt đất nước, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng nhiều bậc quy mô GDP của nền kinh tế và cải thiện mức sống của người dân.

Tuy nhiên, tại sao mỗi khi phân tích và đánh giá, nhiều chuyên gia vẫn không hết các trăn trở và lo ngại, thậm chí dường như những điều ấy trong họ còn gia tăng trong bối cảnh các chính sách ưu đãi hơn nữa để tiếp tục thu hút FDI tiếp tục được ban hành?


Đầu tư nước ngoài được kỳ vọng sẽ tạo ra việc làm và xây dựng lực lượng lao động chuyên nghiệp với tay nghề cao. Ảnh: QUỐC HÙNG

Còn nhớ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khi xây dựng Luật Đầu tư nước ngoài, cả các nhà lập chính sách và giới nghiên cứu đã từng bàn thảo rất nhiều về vai trò của FDI, xoay quanh các vấn đề như tác động lên chủ quyền kinh tế của quốc gia và các mục tiêu mong đợi như cải cách thể chế và cơ cấu, xúc tiến chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động... Thế rồi sau ba chu kỳ phát triển, mỗi lần 10 năm, cái chúng ta đạt được, xét một cách tổng quan, là một nền kinh tế đã mở quá rộng và phụ thuộc khá sâu vào bên ngoài...

Gần đây, tại một hội thảo bàn về chiến lược thu hút FDI, một lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thẳng thắn thừa nhận rằng các dự án FDI vẫn chủ yếu là lắp ráp, gia công, tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam chưa cao. Phân tích kỹ hơn, FDI chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp Việt Nam để cùng tham gia chuỗi giá trị, chưa thúc đẩy được ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam phát triển; đồng thời, hoạt động chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý chưa được như kỳ vọng...

Nếu chỉ xem cách thức và động cơ mở cửa đất nước, thu hút FDI của mỗi quốc gia ở thời điểm bắt đầu thì đã thấy Trung Quốc và ta hoàn toàn khác biệt rồi. Với Trung Quốc, đó là cách tiếp cận chủ động, có tầm nhìn xa và khá bài bản, trong khi với Việt Nam dường như là giải pháp của tình thế.
Có thể nói tất cả các nước khi thu hút FDI đều đặt trọng tâm vào thúc đẩy tiếp nhận và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, nếu như năm 2009, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 57 trên toàn cầu về tiêu chí này, thì sau năm năm, đến năm 2014, chúng ta đã tụt xuống ở vị trí thứ 103, giảm 46 bậc, thấp hơn nhiều so với vị trí tương ứng của các nước trong khu vực.

Đầu tư nước ngoài cũng được kỳ vọng sẽ tạo ra việc làm và xây dựng lực lượng lao động chuyên nghiệp với tay nghề cao, có tính kỷ luật và sự gắn bó lâu dài với các ngành công nghiệp mới được hình thành. Tuy nhiên, thực tế đã không như kỳ vọng.

Nền kinh tế vãng lai...

Nhìn vào các hiện tượng trên, tôi dần dần liên tưởng tới một khái niệm dường như chưa có trong sách vở. Nó nói về một nền kinh tế vãng lai với sự trù phú bề mặt có tính bong bóng, đến rồi lại đi, gợi lại một câu chuyện thú vị về đầu tư nước ngoài nhiều năm trước. Đó là dự án khách sạn nổi 5 sao trên sông Sài Gòn tồn tại từ năm 1989-1997. Khi đó, cả TPHCM chưa có khách sạn nào đạt chuẩn 5 sao và do nhu cầu cấp bách của thị trường, một nhà đầu tư Nhật Bản đã mua con tàu mang tên “The John Brewer Reef Floating Hotel” từ Úc, kéo về Việt Nam để kinh doanh. Tám năm sau, khi hết thời hạn và kinh doanh đủ lãi, cái khách sạn đẳng cấp tuyệt vời đó lại được kéo đi, để lại một khoảng trống trên bến Bạch Đằng thơ mộng. Liệu rằng câu chuyện này, về bản chất, có trùng khớp và lặp lại như một định mệnh với nền kinh tế Việt Nam hay không, không phải bây giờ mà hai mươi năm nữa, khi chúng ta tổng kết nửa thế kỷ mở cửa để thu hút FDI và hội nhập với thế giới bên ngoài?

Gần đây, trong một số thảo luận về mô hình kinh tế mà Việt Nam cần noi theo sau bao nhiêu năm trăn trở với nhiều thử nghiệm khác nhau, tôi đã nghe những ý kiến cho rằng Trung Quốc chính là sự lựa chọn phù hợp với lập luận rằng: cùng một thể chế chính trị giống nhau, nếu Trung Quốc đã thành công thì tại sao Việt Nam lại không thể? Trên thực tế, nền kinh tế Trung Quốc đã đi lên bằng thu hút FDI thành công, nhưng hãy gác qua những yếu tố căn bản khác không thể so sánh với Việt Nam, mà chỉ xem cách thức và động cơ mở cửa đất nước mỗi quốc gia ở thời điểm bắt đầu thì đã thấy hoàn toàn khác biệt rồi. Với Trung Quốc, đó là cách tiếp cận chủ động, có tầm nhìn xa và khá bài bản, trong khi với Việt Nam dường như là giải pháp của tình thế. Rất tiếc rằng cho tới nay, cái hoàn cảnh ấy vẫn chưa vượt qua được, khi một lần nữa Việt Nam lại phải đối mặt với vị thế bị động của người đi sau để đón dòng FDI chất lượng thấp mà thị trường Trung Quốc không còn chấp nhận. Đó chính là các dự án đầu tư hướng đến hoặc tiếp tục khai thác nhân công giá rẻ, hoặc sử dụng công nghệ cũ với năng suất và tiêu chuẩn môi trường thấp.

Có lẽ còn nhiều vấn đề về cách tiếp cận cần được bàn hay bàn lại khi chúng ta muốn xây dựng một chiến lược thu hút FDI mới. Chẳng hạn như tại sao các cấp chính quyền nhiều năm qua lại luôn luôn quan tâm, khuyến khích và dành nhiều ưu đãi cho các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp nổi tiếng và các dự án lớn hay siêu lớn? Và môi trường đầu tư sẽ đi về đâu nếu chúng ta cứ tiếp tục đi theo hướng này? Hãy lấy ngành công nghiệp ô tô làm ví dụ. Dù không phải là một chuyên gia về công nghiệp nhưng tôi cũng nhận được sự chia sẻ của một nhà tư vấn nước ngoài rằng Việt Nam không thể phát triển công nghệ ô tô bằng các “ông lớn” của thế giới trong lĩnh vực này. Logic của vấn đề nằm ở ngành công nghiệp phụ trợ vốn do hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nhau đảm nhiệm. Rất tiếc, họ lại chính là nhóm đối tượng mà Việt Nam ít quan tâm nhất để kêu gọi đầu tư.

Góp ý cho một cách tiếp cận mới

Để góp ý cho một cách tiếp cận mới, tôi e rằng chúng ta cần phải định hình lại cái mục tiêu cốt tử là xây dựng một nền kinh tế quốc dân trên nền tảng của kinh tế học phát triển. Như thế giới đã tổng kết từ nhiều bài học thành công và thất bại về chiến lược xây dựng quốc gia, đó phải là một phương pháp luận bài bản và có hệ thống, không chỉ nhằm vào tăng trưởng GDP, phát triển hạ tầng hay thay đổi cơ cấu kinh tế, mà còn là cải thiện căn bản năng lực của số đông người dân thông qua nâng cao sức khỏe, giáo dục - đào tạo, điều kiện làm việc và môi trường sống trong cả hai khu vực công - tư và trong cả hai khu vực nội địa và đầu tư nước ngoài.

Như là điểm khởi đầu, có lẽ thay vì tiếp tục nhấn mạnh chỉ tiêu có tính kinh điển là GDP (Gross Domestic Products), chúng ta hãy quan tâm hơn đến một phép đo khác có ý nghĩa thiết thực hơn là GNP (Gross National Products). Đơn giản bởi vì nếu GDP đo sản phẩm chung được làm ra trên lãnh thổ Việt Nam thì GNP đo các giá trị mới được tạo lập bởi chính người Việt Nam và phải chăng đó mới là điều thực sự có ý nghĩa. Có thể chúng ta sẽ bớt đi phần nào niềm tự hào và tự tin khi so sánh giữa hai con số này: theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, GDP của Việt Nam trong năm 2016 là 202,6 tỉ đô la Mỹ nhưng trong đó, GNP chỉ là 190,8 tỉ đô la Mỹ và còn chưa trừ đi khoảng 10 tỉ đô la Mỹ có được từ nguồn kiều hối của người Việt chuyển về.

Một cách nhìn khác trong chủ đề này là chúng ta hãy quan tâm thực chất đến con người cá nhân và đời sống dân sự. Khi cảnh báo về tình trạng chuyển giao công nghệ thấp từ khu vực FDI, các cơ quan quản lý về đầu tư rất cần nhìn vào yếu tố căn cốt là sự chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm từ con người đến con người, thay cho những biện pháp rất hình thức và dễ bị lạm dụng là ưu đãi về thuế và đất đai cho các dự án đạt tiêu chí sử dụng công nghệ cao. Chẳng hạn, tôi đã nhiều lần được nghe các nhà quản lý cấp cao của nước ngoài than phiền một vấn đề đơn giản rằng với tình trạng ô nhiễm không khí và kẹt xe ở các thành phố lớn như TPHCM và Hà Nội hiện nay, cả họ lẫn gia đình rất ngại chuyển đến sinh sống để có thể giữ một cam kết lâu dài với Việt Nam. 

Trở lại với nỗi lo về một nền kinh tế vãng lai, tôi ước rằng thay vì quan tâm nhiều đến sự đến, đi hay ở của các dòng vốn đầu tư mà hơn lúc nào hết, trong thời đại của nền kinh tế số, sự dịch chuyển của chúng là vô cùng nhanh chóng, tự do và linh hoạt, chúng ta cần tập trung hơn vào kiến tạo một môi trường sống tốt và ổn định trên tổng thể. Một đất nước Việt Nam đáng sống sẽ không chỉ thu hút mà còn giữ lại được những con người ưu tú cùng với vốn đầu tư và năng lực sáng tạo của họ. Phải chăng đó mới chính là cái gốc bền của nền kinh tế quốc dân phát triển bền vững.

Theo Luật sư Nguyễn Tiến Lập
Thành viên NHQuang & Cộng sự, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Chia sẻ :
Từ khóa:
Other news
Gửi thảo luận trên Facebook

 Ban biên tập báo điện tử Vglobalnews
Địa chỉ: Bangkok-Thailand
Email: 
vglobalnews@gmail.com